PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Các mục tiêu phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài
chính xét theo nghĩa khái quát đề cập tới nghệ thuật phân tích và giải thích
các báo cáo tài chính. Để áp dụng hiệu quả nghệ thuật này đòi hỏi phải thiết
lập một quy trình có hệ thống và logic, có thể sử dụng làm cơ sở cho việc ra
quyết định. Trong phân tích cuối cùng, việc ra quyết định là mục đích chủ yếu
của phân tích báo cáo tài chính. Dù cho đó là nhà đầu tư cổ phần vốn có tiềm
năng, một nhà cho vay tiềm tàng, hay một nhà phân tích tham mưu của một công ty
đang được phân tích, thì mục tiêu cuối cùng đều như nhau - đó là cung cấp cơ sở
cho việc ra quyết định hợp lý. Các quyết định xem nên mua hay bán cổ phần, nên
cho vay hay từ chối hoặc nên lựa chọn giữa cách tiếp tục kiểu trước đây hay là
chuyển sang một quy trình mới, tất cả sẽ phần lớn sẽ phụ thuộc vào các kết quả
phân tích tài chính có chất lượng. Loại hình quyết định đang được xem xét sẽ là
yếu tố quan trọng của phạm vi phân tích, nhưng mục tiêu ra quyết định là không
thay đổi. Chẳng hạn, cả những người mua bán cổ phần lẫn nhà cho vay ngân hàng
đều phân tích các báo cáo tài chính và coi đó như là một công việc hỗ trợ cho
việc ra quyết định, tuy nhiên phạm vị chú ý chính trong những phân tích của họ
sẽ khác nhau. Nhà cho vay ngân hàng có thể quan tâm nhiều hơn tới khả năng cơ
động chuyển sang tiền mặt trong thời kỳ ngắn hạn và giá trị lý giải của các tài
sản có tính cơ động. Còn các nhà đầu tư cổ phần tiềm năng quan tâm hơn đến khả
năng sinh lợi lâu dài và cơ cấu vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, sự
định hướng vào việc ra quyết định của công tác phân tích là đặc trưng chung.
Có hai mục đích hoặc
mục tiêu trung gian trong phân tích báo cáo tài chính, đồng thời là mối quan
tâm cho mọi nhà phân tích thông minh. Thứ nhất, mục tiêu ban đầu của việc phân
tích báo cáo tài chính là nhằm để "hiểu được các con số" hoặc để
"nắm chắc các con số", tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính
như là một phương tiện hỗ trợ để hiểu rõ các số liệu tài chính trong báo cáo.
Như vậy, người ta có thể đưa ra nhiều biện pháp phân tích khác nhau nhằm để
miêu tả những quan hệ có nhiều ý nghĩa và chắt lọc thông tin từ các dữ liệu ban
đầu. Thứ hai, do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc
ra quyết định, một mục tiêu quan trọng khác là nhằm đưa ra một cơ sở hợp lý cho
việc dự đoán tương lai. Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân
tích tài chính hay tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do
đó, người ta sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm
cố gắng đưa ra đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty,
dựa trên phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước
tính tốt nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Trong nhiều trường
hợp người ta nhận thấy rằng, phần lớn công việc phân tích báo cáo tài chính bao
gồm việc xem xét cẩn thận, tỷ mỉ các báo cáo tài chính, thậm chí cả việc đọc kỹ
lưỡng hơn đối với các chú thích và việc sắp xếp lại hoặc trình bày lại các số
liệu sẵn có để đáp ứng nhu cầu của người phân tích. Khi đó, người ta có thể hỏi
tại sao không thể chấp nhận các báo cáo tài chính đã chuẩn bị theo các mệnh
giá, nói cách khác là tại sao lại “can thiệp vào các con số” ngay từ đầu? Câu
trả lời hiển nhiên là, hầu như luôn luôn phải có can thiệp đôi chút để “hiểu rõ
các con số”. Nhìn chung, đòi hỏi phải có sự phân tích nào đó với tư cách là
bước đầu tiên đối với báo cáo tài chính đã được chuẩn bị nhằm chắt lọc các
thông tin từ các số liệu trình bày trong báo cáo. Thứ hai, hầu hết các quyết
định được thực hiện trên cơ sở phân tích báo cáo tài chính là khá quan trọng,
cho nên việc chấp nhận các số liệu tài chính đã trình bày lúc đầu thường là một
cách làm không tốt. Về mặt tài chính, hầu hết các quyết định đều đòi hỏi phải
sử dụng một kết cấu logic, trong đó, các cảm nghĩ và các kết luận có thể được
phát triển một cách có hệ thống và có ý kiến đánh giá hợp lý. Dưới đây sẽ xem
xét một kết cấu như vậy.
Phân tích tỷ lệ là
một công cụ thường được sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính. Việc sử dụng
các tỷ lệ cho phép người phân tích đưa ra một tập hợp các con số thống kê để
vạch rõ những đặc điểm chủ yếu về tài chính của một số tổ chức đang được xem
xét. Trong phần lớn các trường hợp, các tỷ lệ được sử dụng theo hai phương pháp
chính. Thứ nhất, các tỷ lệ cho tổ chức đang xét sẽ được so sánh với các tiêu
chuẩn của ngành. Có thể có những tiêu chuẩn của ngành này thông qua các dịch vụ
thương mại như của tổ chức Dun and Bradstreet hoặc Robert Morris Associates,
hoặc thông qua các hiệp hội thương mại trong trường hợp không có sẵn, các tiêu
chuẩn ngành cho ngành đã biết hoặc do tổ chức mà ta đang xem xét không thể dễ
dàng gộp lại được thành một loại hình ngành “tiêu chuẩn”. Các nhà phân tích có thể
đưa ra một tiêu chuẩn riêng của họ bằng cách tính toán các tỷ lệ trung bình cho
các công ty chủ đạo trong cùng một ngành. Cho dù nguồn gốc của các tỷ lệ là như
thế nào cũng đều cần phải thận trọng trong việc so sánh công ty đang phân tích
với các tiêu chuẩn được đưa ra cho các công ty trong cùng một ngành và có quy
mô tài sản xấp xỉ.
Công dụng lớn thứ hai
của các tỷ lệ là để so sánh xu thế theo thời gian đối với mỗi công ty riêng lẻ.
Ví dụ, xu thế số dư lợi nhuận sau thuế đối với công ty có thể được đối chiếu
qua một thời kỳ 5 năm hoặc 10 năm. Rất hữu ích nếu ta quan sát các tỷ lệ chính
thông qua một vài kỳ sa sút kinh tế trước đây để xác định xem công ty đã vững
vàng đến mức nào về mặt tài chính trong các thời kỳ sa cơ lỡ vận về kinh tế.
Đối với cả hai phạm
trù sử dụng chính, người ta thường nhận thấy rằng “trăm nghe không bằng mắt
thấy” và việc mô tả các kết quả phân tích dưới dạng đồ thị thường rất hữu ích
và xúc tích. Nếu ta chọn phương pháp này để trình bày các kết quả thì tốt nhất
là nên trình bày cả tiêu chuẩn ngành và xu thế trên cùng một biểu đồ. Các tỷ lệ
tài chính then chốt thường được nhóm lại thành bốn loại chính, tuỳ theo khía
cạnh cụ thể về tình hình tài chính của công ty mà các tỷ lệ này muốn làm rõ.
Bốn loại chính, xét theo thứ tự mà chúng ta sẽ được xem xét ở dưới đây là:
1.
Khả năng sinh lợi: Các tỷ lệ “ở hàng dưới cùng” được thiết kế để đo lường năng lực
có lãi và mức sinh lợi của công ty.
2.
Tính thanh khoản: Các tỷ lệ được thiết kế ra để đo lường khả năng của một công ty
trong việc đáp ứng nghĩa vụ thanh toán nợ ngần ngắn hạn khi đến hạn.
3.
Hiệu quả hoạt động: Đo lường tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của công
ty để kiếm được lợi nhuận.
4.
Cơ cấu vốn (đòn bẩy nợ / vốn): Đo lường phạm vi theo đó việc trang trải tài
chính cho các khoản vay nợ được công ty thực hiện bằng cách vay nợ hay bán thêm
cổ phần. Có hàng loạt tỷ lệ trong mỗi loại nêu trên. Ta sẽ xem xét tuần tự từng
loại và sẽ khảo sát các tỷ lệ chính trong mỗi nhóm.
Có ba cách thường
được sử dụng để đo lường khả năng sinh lợi là suất doanh thu, suất thu hồi vốn
đầu tư (ROI - Return on Investment) và suất thu hồi vốn cổ phần (ROE - Return
on Equity). Suất doanh thu được xác định bằng cách chia số lãi sau thuế cho
doanh thu thuần tuý, trong đó doanh thu thuần túy biểu thị số tiền bán không kể
lãi, các khoản tiền được trừ đi và chiết khấu tiền mặt:
Suất doanh thu = (thu nhập sau thuế ) / (doanh thu thuần tuý)
Tỷ lệ khả năng sinh
lợi thứ hai là suất thu hồi vốn đầu tư (ROI), liên hệ thu nhập sau thuế với toàn
bộ cơ số tài sản của công ty:
ROI = (thu nhập sau thuế ) / (tổng tài sản)
Một cách tính toán tỷ
lệ này phổ biến khác là cộng thêm chi phí trả lãi vay nợ sau thuế vào tử số,
dựa trên lý luận là cần phải coi suất thu hồi vốn đầu tư là suất thu hồi giành
cho cho những người cho vay cũng như cho những người có cổ phần. Khi dùng thu
nhập sau thuế cộng với chi phí trả lãi ở tử số ta đã đo lường suất thu hồi cho
cả hai nhóm người cung vốn chủ yếu này.
Tỷ lệ khả năng sinh
lợi cuối cùng là suất thu hồi cổ phần, liên hệ thu nhập sau thuế với cổ phần
của các cổ đông. Thông thường, cổ phần của các cổ đông không bao hàm kết quả
của mọi loại tài sản vô hình (chẳng hạn như: uy tín đối với khách hàng, nhãn
hiệu thương mại, ...) và nó được xác định bằng cách lấy tổng tài sản trừ đi
tổng số nợ và các tài sản vô hình. Tỷ lệ này được tính như sau:
ROE = (thu nhập sau thuế) / (cổ phần của các cổ đông)
Suất thu hồi cổ phần
thường được coi là tỷ lệ quan trọng nhất trong các tỷ lệ vê khả năng sinh lợi.
Với tư cách là một chỉ dẫn chung, suất thu hồi cổ phần ở mức tối thiểu là 15%
là mục tiêu hợp lý để tính toán đưa ra những khoản cổ tức thích hợp và để tạo
nguồn quỹ cho sự tăng trưởng kỳ vọng trong tương lai.
Một thước đo tính cơ
động được dùng phổ biến nhất, đó là tỷ lệ thanh toán hiện hành. Tỷ lệ này được
thiết kế ra để đo lường mối liên hệ hoặc “sự cân đối” giữa tài sản lưu động
(chủ yếu là tiền mặt, các chứng khoán bán được trên thị trường, các khoản phải
thu và các khoản dự trữ) với nợ ngắn hạn (chủ yếu là các khoản phải trả, các
phiếu nợ vãng lai phải trả và phần sắp đến hạn phải trả của khoản nợ dài hạn).
Theo kinh nghiệm, đa số cho rằng tỷ lệ này ít nhất nên là 2/1 đối với phần lớn
các hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ này được tính như sau:
Tỷ lệ thanh toán hiện hành = (tài sản lưu động) / (nợ ngắn hạn)
Một tỷ lệ khác gắn
liền với tỷ lệ thanh toán hiện hành cũng thường được dùng là tỷ lệ thanh toán
nhanh. Tỷ lệ này cũng còn được gọi là “phép kiểm định a-xít” được thiết kế ra
để đo lường mối liên hệ giữa phần được gọi là các tài sản linh hoạt (tức là
phần tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền mặt) với số nợ ngắn hạn. Nó
được tính toán như sau:
Tỷ lệ thanh toán nhanh = {(tiền mặt) + (các chứng khoán bán được)
+ (các khoản phải thu)} / (nợ ngắn hạn)
Như ta có thể thấy từ
công thức trên, tỷ lệ thanh toán nhanh về cơ bản đo lường mối liên hệ giữa các
tài sản lưu động chứ không phải là dự trữ với phần nợ ngắn hạn. Theo kinh
nghiệm, đa số cho rằng tỷ lệ này ít nhất nên là 1/1. Hai tỷ lệ cuối cùng về tính
thanh khoản đo lường tốc độ chuyển các khoản phải thu và các khoản dự trữ thành
những tài sản lưu động linh hoạt hơn.
Kỳ thu tiền bình quân
là tỷ lệ đo lường tốc độ chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt:
Doanh thu trung bình hàng ngày = (doanh thu thuần túy) / 365 ngày
Kỳ thu tiền bình quân = (các khoản phải thu) / (doanh thu trung
bình hàng ngày)
Quy tắc theo đa số
cho rằng, kỳ thu tiền bình quân không nên vượt hạn thực tế phải thanh toán theo
quy định của các điều kiện bán hàng của công ty quá 10 hoặc 15 ngày (xem Dun và
Bradstreet, 1980, trang 3).
Tỷ lệ luân chuyển dự
trữ (vòng quay hàng tồn kho) biểu thị quan hệ của các mức luân chuyển hàng năm
hoặc số ngày mà các hàng hóa được lưu giữ lại dưới dạng dự trữ, đo lường tốc độ
chuyển các khoản dự trữ thành lượng bán (và do đó sẽ trở thành các khoản phải
thu):
Luân chuyển dự trữ = (giá vốn hàng bán) / (dự trữ trung bình)
Số ngày hàng hóa nằm trong dự trữ = (365 ngày) / (luân chuyển dự
trữ)
Các tỷ lệ hiệu quả
hoạt động cho ta số đo về mối liên hệ giữa số doanh thu và số đầu tư hàng năm
trong các loại tài khoản tài sản khác nhau. Tỷ lệ đầu tiên được trình bầy trong
phạm trù này giữa doanh thu với dự trữ khá giống với tỷ lệ luân chuyển dự trữ
nêu trong phần các tỷ lệ về tính thanh khoản, nhưng có một điểm khác biệt rất
quan trọng. Tỷ lệ luân chuyển dự trữ nêu ra ở đây cho ta một ước tính về các
mức luân chuyển vật lý, do trong tử số của tỷ lệ này sử dụng con số về giá vốn
hàng bán. Tỷ lệ giữa doanh thu với dự trữ được trình bày ở đây sẽ sử dụng doanh
thu thuần tuý trong tử số, tức là giá vốn hàng bán cộng số dư lãi gộp. Do đó,
trong khi tỷ lệ giữa doanh thu với dự trữ không cho ta số đo về mức luân chuyển
vật lý, nhưng nó lại cho ta một chỉ tiêu quan trọng và tiện dụng để so sánh tỷ
lệ của số tiền bán được với số dự trữ của một doanh nghiệp với tỷ lệ đó của
doanh nghiệp khác. Các tỷ lệ khác trong phạm trù này hoàn toàn dễ hiểu.
Doanh thu thuần túy so với dự trữ = (doanh thu thuần túy) / (dự
trữ)
Doanh thu thuần túy so với vốn lưu động = (doanh thu thuần túy) /
(vốn lưu động)
Doanh thu thuần túy so với tổng tài sản = (doanh thu thuần túy) /
(tổng tài sản)
Doanh thu thuần túy so với tài sản cố định = (doanh thu thuần túy)
/ (tải sản cố định)
Doanh thu thuần túy so với vốn cổ phần = (doanh thu thuần túy) /
(cổ phần của các cổ đông)
Nói chung, thuật ngữ
đòn bảy nợ / vốn nói về phạm vi mức độ một công ty sử dụng vốn đi vay để trang
trải tài chính cho các hoạt động của nó. Công ty càng sử dụng nợ nhiều hơn thì
nó càng được coi là bị tác động đòn bẩy cao hơn. Hai tỷ lệ đầu tiên mà ta xem
xét trong phạm trù này thường được nói tới rất nhiều, đó là tỷ lệ nợ và tỷ lệ
nợ - cổ phần:
Tỷ lệ nợ = (tổng số nợ) / (tổng tài sản)
Tỷ lệ nợ - cổ phần = (nợ dài hạn) / (cổ phần)
Tỷ lệ chủ yếu thứ ba
trong phạm trù này là tỷ lệ số lần trả được lãi. Tỷ lệ này đo lường số dollar
thu nhập trước khi trả lãi vay nợ và đóng thuế ứng với mỗi dollar trả lãi vay
nợ. Tỷ lệ này được tính bằng tỷ số giữa nguồn thu trước khi trả lãi và đóng
thuế (EBIT - Earning before interest and taxes) với số chi trả lãi:
Số lần trả được lãi = (nguồn thu trước khi trả lãi và đóng thuế) /
(chi phí trả lãi)
Để tính EBIT chỉ cần
lấy nguồn thu sau thuế cộng với chi phí trả lãi cộng với số chi trả thuế thu
nhập có trong báo cáo thu nhập. Sau đó đem chia tổng này cho chi phí trả lãi để
thu được tỷ lệ số lần được lãi. Đối với phần lớn các công ty thì tỷ lệ số lần
được lãi nằm trong phạm vi từ 4,0 tới 5,0 được coi là rất mạnh. Tỷ lệ nằm trong
phạm vi từ 3,0 tới 4,0 sẽ được coi là mức bảo vệ thích hợp trước sự sa cơ lỡ
vận có thể có trong tương lai.
Cùng với sự xem xét
riêng từng tỷ lệ riêng lẻ, điều hết sức quan trọng là cần phải xem xét mối liên
hệ qua lại giữa các tỷ lệ khác nhau. Khả năng sinh lợi của một công ty, khả
năng cơ động, tính hiệu quả của hoạt động và tình hình về cơ cấu vốn, tất cả
đều có liên hệ qua lại với nhau và không nên xem xét một mặt đơn lẻ nào trong
hoạt động tách rời với các mặt khác. Có hai công thức đặc biệt hữu ích trong
việc xác định các mối liên hệ này. Công thức đầu tiên trong hai công thức từ
lâu đã được biết đến dưới tên gọi “hệ thống phân tích DuPont” gắn liền suất thu
hồi đầu tư với suất dư lợi nhuận và mức luân chuyển tài sản của công ty:
Như phương trình trên
cho thấy, ROI là kết quả tương tác của hai thành phần quan trọng, suất dư lợi
nhuận của công ty (thu nhập thuần túy/doanh thu) và mức luân chuyển tài sản
(doanh thu/tổng tài sản). Khi phát biểu ngắn gọn người ta thường coi ROI là
suất dư nhân với luân chuyển. Đây là một quan hệ quan trọng vì nó chỉ ra rằng,
với tư cách là số do thành tích thực hiện toàn cục, ROI là sản phẩm của hai yếu
tố: khả năng sinh lợi của công ty (được đo bởi số dư lợi nhuận của nó) và hiệu
quả hoạt động của nó (được đo bằng tổng luân chuyển tài sản của nó). Khi phân
tích tổng mức thu hồi đầu tư của công ty, nếu chỉ xem xét một số đo trong quá
trình hoạt động thì không thích hợp, cần phải xem xét cả hai. Với tư cách là
công cụ trợ giúp dự báo, công thức này cho ta thấy thêm là, vấn đề về ROI tiềm
năng có thể là “vấn đề về báo cáo thu nhập” (suất dư lợi nhuận) hoặc “vấn đề về
quản lý tài sản” (luân chuyển tài sản). Phần áp dụng thực hành quan hệ này sẽ
được minh họa trong phần nghiên cứu tình huống ở cuối chương này.
Công chức thứ hai với
bản chất tương tự cho ta một sự hiểu biết sâu sắc thú vị và hữu ích trong những
mối liên hệ giữa suất thu hồi vốn đầu tư, suất thu hồi cổ phần và tình hình cơ
cấu của vốn công ty:
Phương trình này cho
ta thấy mối liên hệ trực tiếp giữa ROE, ROI và cơ cấu vốn. Cơ cấu nợ / vốn của
công ty càng cao (được do bởi tỷ lệ của tổng nợ/tổng tài sản) thì mối liên hệ
giữa ROE và ROI của nó sẽ càng cao. Ví dụ, nếu cả hai công ty đều có ROI ở mức
9,0 % nhưng công ty A có tỷ lệ tổng nợ/tổng tài sản là 35 %, trong khi công ty
B có tỷ lệ bằng 70 % thì khi ấy, các số liệu về ROE đối với hai công ty này sẽ
như sau:
Ví dụ này cho thấy
rằng, mặc dù hai công ty có khả năng sinh lợi ngang nhau xét theo quan điểm
hoạt động (xét theo ROI), nhưng công ty B có suất thu hồi cổ phần cao hơn nhiều
do kết quả của cơ cấu tài chính công ty đó. Để có số ROE tăng thêm này, những
người có cổ phần đã phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn nhiều, gắn liền với đòn
bẩy nợ / vốn gia tăng. Cũng thú vị khi nhận thấy rằng, tỷ lệ đòn bẩy nợ / vốn
của công ty B đúng bằng 2 lần của công ty A, trong khi ROE của công ty B lớn
hơn 2 lần so với công ty A. Mặc dù không thể chứng minh được bằng phép tính số
học nhưng cũng khá rõ để thấy rằng việc tăng đôi tỷ lệ đòn bẩy nợ / vốn giữa
công ty B so với công ty A đã đưa tới sự mạo hiểm có khả năng vỡ nợ của công ty
B gấp hơn hai lần so với công ty A. Mối liên hệ này sẽ được minh họa lại một
lần nữa trong ví dụ thực hành trong nghiên cứu tình huống dưới đây.
Trong điểm lưu ý cuối
cùng có liên quan tới việc phân tích tỷ lệ, cần phải nhấn mạnh lại rằng việc
tính toán và trình bày các hệ thống tỷ lệ của một công ty trong một năm nào đó,
bản thân nó chỉ có lợi ích hạn chế. Cần phải đối chiếu các tỷ lệ này với thành
tựu trong các năm khác và với các tiêu chuẩn thích hợp cho các công ty có quy
mô tài sản xấp xỉ trong các ngành tương tự. Trong phần sau sẽ xem xét cách dùng
báo cáo với quy mô chung để phân tích tài chính và rõ ràng cũng cần phải có
những tiêu chuẩn mới thích hợp.
Các báo cáo tài chính
theo quy mô chung biểu thị toàn bộ các tài khoản trên bảng cân đối kế toán và
phần báo cáo thu nhập theo số phần trăm của con số chính yếu nào đó. Trên báo
cáo thu nhập, doanh thu thuần túy được coi là 100 % và toàn bộ các khoản mục
khác được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm của số doanh thu. Trên bảng cân đối,
tổng tài sản được coi là 100 % ở trên phía trái còn tổng số nợ và cổ phần được
coi là 100 % ở bên phải. Toàn bộ các khoản mục tài sản được liệt kê theo số
phần trăm của tổng tài sản và toàn bộ các khoản mục nợ và cổ phần được liệt kê
theo số phần trăm của tổng số nợ và cổ phần.
Mục đích của việc
chuẩn bị các báo cáo loại này là nhằm tạo thuận lợi cho việc phân tích các khía
cạnh quan trọng về tình hình tài chính và các hoạt động của công ty. Nên hình
dung các báo cáo này như là phần bổ sung cơ bản cho các thông tin đã có từ các
loại tỷ lệ khác nhau đã thảo luận trước đây. Trên bảng cân đối theo quy mô
chung, người ta tập trung nỗ lực phân tích vào cơ cấu bên trong và vào việc
phân bố các nguồn lực tài chính của công ty. Trên phía các tài sản, báo cáo
theo quy mô chung sẽ mô tả cách thức phân bố các khoản đầu tư trong các nguồn
tài chính khác nhau giữa các khoản mục tài sản.
Một trong những điểm
được quan tâm đặc biệt ở đây là việc lựa chọn cách phân bố nguồn lực giữa tài
sản lưu động và tài sản cố định và cách phân bố các tài sản lưu động giữa các
chủng loại khác nhau của các tài khoản vốn hoạt động - chủ yếu là sự phân bố
khoản đầu tư vốn hoạt động giữa tiền mặt, các khoản phải thu và dự trữ. Trên
phía nợ và cổ phần, bảng cân đối theo quy mô chung chỉ ra sự phân bố theo phần
trăm của nguồn tài chính do nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và vốn cổ phần đem lại. Một
trong những điều quan tâm ở đây là mối liên hệ giữa nợ dài hạn và cổ phần, “sự
tách biệt” giữa nợ ngắn hạn và các nguồn tài chính dài hạn do vay nợ và do cổ
phần đem lại.
Báo cáo theo quy mô
chung thứ hai là báo cáo thu nhập theo quy mô chung. Nó cho thấy tỷ lệ doanh số
hoặc doanh thu mà một dollar thu được nhờ các khoản mục chi phí và chi tiêu
khác. Một lần nữa cần phải chú ý rằng, không thể xem xét riêng rẽ những liên hệ
do các báo cáo theo quy mô chung mô tả. Cần phải xem xét xu thế từ năm này qua
năm khác đối với công ty và cần phải tiến hành so sánh với các tiêu chuẩn
ngành.
Mục tiêu chính của
mỗi phân tích sẽ qui định mức độ chú trọng tương đối đối với mỗi phạm vi chính
trong phân tích, đó là khả năng sinh lợi, tính cơ động, hiệu quả hoạt động hoặc
cơ cấu vốn. Nhưng mặc dù ý định phân tích thế nào cũng không thể bỏ qua hoàn
toàn một phạm vi riêng lẻ nào cả và có thể sử dụng một khuôn khổ logic để xem
xét một cách có hệ thống đối với thể trạng tài chính của công ty. Bước đầu tiên
trong trình tự này là cần phải cụ thể hóa mục tiêu phân tích một cách rõ ràng
và đưa ra một hệ thống các câu hỏi then chốt cần phải giải đáp để đạt được mục
tiêu này. Sau đó, bước thứ hai là chuẩn bị các dữ liệu cần thiết để thực hiện
các mục tiêu cụ thể. Bước này thường đòi hỏi phải chuẩn bị các tỷ lệ chủ yếu và
các báo cáo theo quy mô chung.
Bước thứ ba liên quan
tới việc phân tích và giải thích các thông tin số lượng đã có ở bước hai. Nói
chung, trước hết nên xem xét các thông tin do việc phân tích các tỷ lệ đem lại
nhằm đưa ra một cảm nhận bao quát chung về các phạm vi tiềm tàng của vấn đề,
sau đó chuyển sang các thông tin chứa đựng trong các báo cáo tài chính theo quy
mô chung. Những câu hỏi và ý kiến sơ bộ đưa ra khi phân tích các con số tỷ lệ
thường cho ta những hiểu biết sâu sắc có giá trị, có thể giúp cho việc tập
trung sức lực vào việc xem xét các báo cáo quy mô chung.
Bước cuối cùng trong
khảo sát đòi hỏi nhà phân tích hình thành những kết luận dựa trên những số liệu
và trả lời những câu hỏi đã nêu ra trong bước một. Những đề xuất cụ thể với sự
hỗ trợ của những số liệu sẵn có được trình bày vào giai đoạn cuối cùng cùng với
những tóm tắt ngắn gọn về những điểm chính đã được đưa ra trước đây. Nếu người
phân tích muốn đệ trình cho những bên quan tâm khác để xem xét, thì cách thường
làm là nên bắt đầu một bản báo cáo bằng văn bản với phần tóm tắt ngắn gọn những
kết luận đã nêu ra trong giai đoạn cuối cùng này. Điều này cho phép người đọc
nắm được những vấn đề chính của tình huống và sau đó sẽ đọc một cách lựa chọn
đối với mức độ chi tiết hơn tùy theo sự quan tâm chủ yếu của họ.
Các công cụ và kỹ
thuật cơ bản của phân tích báo cáo tài chính sẽ được áp dụng cho các báo cáo
tài chính của công ty Technosystems, INC. Technosystems tham gia vào việc phân
phối bán buôn các loại thiết bị hàn chì, sưởi ấm và điều hòa không khí. Công ty
đã được thành lập vào cuối năm 1979 bởi Joseph A. Gilberti và hai bạn đồng
nghiệp kinh doanh là Hugh Maguire và Carla Diamond. Hàng chủ yếu bán cho các
nhà thầu hoạt động trong các dự án thương mại như các khu nhà văn phòng và các
kho tàng. Cả ba người sáng lập công ty cũng như ba đại diện kinh doanh của công
ty đều là kỹ sư.
Trước lúc thành lập
Technosystems, Gilberti đã từng làm công việc quản lý bán hàng cho công ty
thiết bị Diamag, một công ty do Marguire là chủ tịch và Diamond là phó chủ
tịch. Công ty Diamag đã rất thành công trong việc buôn bán và cho thuê các
thiết bị xây dựng hạng nặng. Thông qua những mối quan hệ của mình với tư cách
là nhà quản lý bán hàng cho Diamag, Gilberti đã bắt đầu khám phá ra khả năng để
thiết lập một công ty mới trong lĩnh vực kinh doanh buôn bán các thiết bị nhiệt
và điều hòa không khí. Mặc dù Marguire và Diamond không quan tâm đến hoạt động
của công ty mới nhưng họ cũng đồng tình với đánh giá của Gilberti về tiềm năng
kinh tế của nó và đồng ý cấp tài chính đầu tư cho doanh nghiệp. Gilberti đã sớm
từ bỏ nhiệm vụ phụ trách quản lý bán hàng của mình cho Diamag và đã trở thành phó
chủ tịch và quản lý trưởng của Technosystems.
Lúc đầu,
Technosystems được cấp tài chính bằng khoản cho vay là 100.000 $ từ phía Diamag
với điều kiện trả dần trong 10 năm, mỗi lần trả 10.000 $ cộng với 14% lãi tính
theo số dư tiền gốc giảm dần. Ngoài ra, 10.000 cổ phần thường đã được phát hành
hợp nhất và chia đều ra giữa ba người sáng lập, mỗi người đã trả 0,10 $ cho mỗi
cổ phần là giá trị ngang giá của nó. Tình hình tài chính hiện tại của công ty
được nêu ra trong minh họa 6.1 và 6.2
Minh họa 6.1
Technosystems, Inc
Các bảng cân đối thu gọn
|
1982
($)
|
1981
($)
|
1980
($)
|
Các tài sản
|
|
|
|
Tiền mặt
|
40.400
|
31.800
|
60.300
|
Các khoản phải thu
|
114.300
|
200.200
|
126.400
|
Dự trữ
|
93.900
|
65.600
|
66.200
|
Chi tiêu trả trước
|
5.000
|
1.800
|
500
|
Tổng tài sản lưu
động
|
253.600
|
299.400
|
253.400
|
Các tài sản cố định
(thuần túy)
|
30.500
|
23.900
|
5.200
|
Tổng
tài sản
|
284.100
|
323.300
|
258.600
|
Các khoản nợ và cổ
phần
|
|
|
|
Các
khoản phải trả
|
94.200
|
124.400
|
111.100
|
Các
phiếu nợ phải trả
|
24.800
|
45.400
|
11.600
|
Chi tiêu cộng dồn
|
900
|
4.200
|
3.700
|
Thuế phải trả
|
11.600
|
9.500
|
-
|
Thuế tạm hoãn
|
6.700
|
1.100
|
-
|
Tổng số nợ ngắn hạn
|
138.200
|
184.600
|
126.400
|
Các phiếu nợ dài
hạn
|
83.200
|
118.500
|
130.000
|
Tổng
các khoản nợ
|
221.400
|
303.100
|
256.400
|
Cổ phần vốn
|
1.000
|
1.000
|
1.000
|
Lãi
còn giữ lại
|
61.700
|
19.200
|
1.200
|
Tổng cổ phần
|
62.700
|
20.200
|
2.200
|
Tổng
số nợ và cổ phần
|
284.100
|
323.300
|
258.600
|
Minh họa 6.2
Technosystems, Inc
Các báo cáo thu nhập thu gọn
|
1982
($)
|
1981
($)
|
1980
($)
|
Doanh
thu
|
1.127.000
|
1.159.000
|
773.300
|
Giá vốn hàng bán
|
952.700
|
900.500
|
627.000
|
Lãi gộp
|
324.300
|
258.500
|
146.300
|
Thu nhập từ lãi
|
800
|
200
|
1.000
|
Tổng thu nhập
|
325.100
|
258.700
|
147.300
|
Tiền lương bán hàng
|
96.200
|
90.300
|
42.200
|
Tiền lương văn
phòng
|
63.300
|
46.900
|
28.200
|
Tiền thuê thiết bị
văn phòng
|
28.200
|
29.800
|
25.500
|
Chi phí chung và
quản trị *
|
65.500
|
56.900
|
50.300
|
Tổng
chi phí
|
253.200
|
223.900
|
146.200
|
Thu
nhập trước thuế
|
71.900
|
34.800
|
1.100
|
Thuế thu nhập
|
29.200
|
10.500
|
300
|
Thu nhập thuần túy
|
42.700
|
24.300
|
800
|
Lãi thu trên một cổ phần
|
4,27
|
2,43
|
0,08
|
* Bao gồm chi trả lãi 15.000 $ (1982), 20.000 $ (1981) và 17.000 $
(1980)
Các tỷ lệ tài chính
chủ yếu cho Technosystems cùng với các tiêu chuẩn này được nêu trong minh họa
6.3. Khi xem xét các số liệu này, ta thấy rằng Technosystems gặp khó khăn giống
như nhiều công ty nhỏ và phát triển nhanh trong giai đoạn phát triển ban đầu -
đó là quá ít vốn. Hầu như ta có thể thấy ngay tỷ lệ vay nợ rất cao của
Technosystems, so với tiêu chuẩn ngành cũng như xét theo con số tuyệt đối. Tổng
nợ gần bằng 80% tổng tài sản trong khi tiêu chuẩn ngành xấp xỉ là 50 %. Tỷ lệ
giữa nợ dài hạn và cổ phần vượt qua 1,3, trong khi theo mức chấp nhận bình
thường thì tỷ lệ này không nên vượt quá 1,0. Mặt khác, tỷ lệ về số lần trả được
lãi có vẻ rất thỏa đáng cho thấy có sự cải thiện lớn từ mức khá nhỏ 2,74 vào
năm 1981 và mức vừa đủ hòa vốn 1,06 vào năm 1980, lên tới mức 5,79 vào năm
1982.
Xét về mặt kết quả,
cần chú ý rằng toàn bộ các tỉ lệ đã thể hiện sự cải thiện lớn qua thời kỳ 1980
– 1982. Cũng cần lưu ý rằng tình hình nợ hết sức cao của công ty là kết quả
trực tiếp của quyết định “bao tiền” cho Technosystems bằng khoản vay ban đầu
của công ty Diamag. Do đó, các khoản nợ dài hạn trên bảng cân đối thể hiện
khoản nợ vay từ “túi khác” của những người nắm đa số cổ phần, theo nghĩa Diamag
và Technosystems cùng hưởng quyền sở hữu chung. Như vậy, tình hình thực tế
không đến nỗi xấu như các tỷ lệ cho thấy, bởi vì Diamag không có những tác động
kinh tế hoặc nhân sự buộc Technosystems phải rơi vào tình trạng vỡ nợ khi không
đáp ứng được thời hạn trả khoản vay mượn.
Việc giải thích các
kết quả trong lĩnh vực hiệu quả hoạt động không hoàn toàn rõ ràng ngay lập tức.
Toàn bộ các tỷ lệ đều vượt mức trung bình ngành khá nhiều, điều này chỉ ra rằng
hoặc hiệu quả hoạt động hết sức cao hoặc Technosystems đang hoạt động với lưng
vốn thấp so với công ty khác trong ngành. Với điều đã viết trong phần thảo luận
trên đây về tình hình cơ cấu vốn của Technosystems, giả thiết về sự thiếu vốn
dường như rất đúng trong phạm vi tỷ lệ giữa doanh thu và cổ phần, trong đó tỷ
lệ của Technosystems ở mức 20,4; so với mức trung bình ngành là 4,5. Với tỷ lệ
thanh toán hiện hành thấp đã biết của Technosystems, cũng không có gì đáng ngạc
nhiên về tỷ lệ cao khác thường giữa doanh thu và vốn hoạt động (11,1 cho
Technosystems đối lại với 5,2 cho ngành) và có lẽ cũng phù hợp cho giả thiết về
sự thiếu vốn vốn. Việc đánh giá các lĩnh vực tỷ lệ giữa doanh thu với dự trữ,
doanh thu với tài sản cố định, doanh thu và tổng tài sản gặp đôi chút khó khăn
hơn, nhưng khi đã biết về các lĩnh vực khác của công ty, chúng ta có thể đưa
vào giả thiết thiếu vốn.
Các kết quả trong
lĩnh vực tính thanh khoản còn chưa rõ, tỷ lệ thanh toán hiện hành còn xấp xỉ ở
dưới mức trung bình ngành 30%, nhưng xu thế của 3 năm cho thấy có sự cải tiến
lớn về tỷ lệ hiệu quả hoạt động . Kỳ thu tiền bình quân thấp hơn mức trung bình
khá nhiều cho thấy rằng ban quản lý đang thực hiện công tác thu thập các khoản
phải thu với tốc độ trên mức trung bình. Con số về số ngày hàng hóa nằm trong
dự trữ cũng cho thấy rằng lĩnh vực kiểm soát dự trữ đang được lưu ý chặt chẽ.
Trong lĩnh vực khả
năng sinh lợi, cả xu thế toàn cục lẫn mức thu nhập đều rất thoả đáng. Suất
doanh thu hiện tại cao hơn mức trung bình ngành khá rõ và cho thấy xu thế ra
tăng nhanh chóng. Suất thu hồi vốn đầu tư dường như cũng tăng nhanh, trong khi
suất thu hồi cổ phần hết sức cao. Mức ROE rất cao, tất nhiên đó là kết quả trực
tiếp của tình hình cơ cấu nợ / vốn rất cao của công ty. Do công ty có mức cổ
phần rất thấp cho nên suất thu hồi cổ phần của nó đặc biệt cao.
Minh họa 6.3
Technosystems, Inc
Các tỷ lệ tài chính chủ yếu
|
1982
|
1981
|
1980
|
Trung bình ngành
|
Khả
năng sinh lợi
|
|
|
|
|
Suất doanh thu (%)
|
3,34
|
2,10
|
0,10
|
1,77
|
Suất thu hồi vốn
đầu tư (%)
|
15,03
|
7,52
|
0,31
|
|
Suất thu hồi cổ
phần (%)
|
68,10
|
120,30
|
36,40
|
7,76
|
Tính thanh khoản
|
|
|
|
|
Tỷ lệ thanh toán
hiện hành (số lần)
|
1,84
|
1,62
|
2,00
|
2,63
|
Tỷ lệ thanh toán
nhanh (số lần)
|
1,12
|
1,26
|
1,48
|
n.a
|
Kỳ thu tiền bình
quân (ngày)
|
33,00
|
63,00
|
60,00
|
45
|
Số ngày hàng hóa
nằm trong kho (ngày)
|
31
|
27
|
39
|
n.a
|
Hiệu
quả hoạt động
|
|
|
|
|
Doanh
thu/dự trữ (số lần)
|
13,60
|
17,70
|
11,70
|
6,00
|
Doanh thu/vốn lưu
động (số lần)
|
11,10
|
10,10
|
6,10
|
5,24
|
Doanh thu/tổng tài
sản (số lần)
|
4,50
|
3,60
|
3,00
|
n.a
|
Doanh thu/cổ phần (số lần)
|
20,40
|
57,40
|
351,50
|
4,50
|
Doanh thu/tài sản
cố định (số lần)
|
41,90
|
48,50
|
148,70
|
n.a
|
Tác động đòn bẩy
(nợ / vốn)
|
|
|
|
|
Tổng số nợ/Tổng tài
sản (%)
|
77,90
|
93,80
|
99,10
|
49,50
|
Nợ dài hạn/Cổ phần
(số lần)
|
1,32
|
5,86
|
55,09
|
n.a
|
Số lần trả được lãi
vay
|
5,79
|
2,74
|
1,06
|
n.a
|
Nguồn: Dun and Bradstreet, các tỷ lệ kinh doanh chính ( N.Y 1980)
n.a = không có số liệu.
Tỷ lệ ROI của
Technosystems đã được tăng cường do kết quả của sự tăng cường tỷ lệ suất doanh
thu và tỷ lệ luân chuyển tài sản. Sự tương tác của hai tỷ lệ then chốt này để
tạo ra suất thu hồi vốn đầu tư có thể diễn giải như sau:
ROI = ( suất dư lợi nhuận ) x ( mức luân chuyển tài sản )
ROI ( 1982 ) = ( 3,34 % ) x ( 4,5 ) = 15,03 %
ROI ( 1981 ) = ( 2,10 % ) x ( 3,6 ) = 7,56 %
Tỷ lệ cực kỳ cao của
suất thu hồi vốn cổ phần của công ty là 68,1% là do 77,9% số trang trải tài
chính của Technosystems được thực hiện nhờ vay nợ. Mối liên hệ toán học giữa
suất thu hồi vốn đầu tư, suất thu hồi cổ phần và việc dùng nợ để trang trải tài
chính có thể thấy rõ thông qua cách tính toán sau:
Phương trình này cho
thấy rõ rằng, tỷ lệ cao khác thường của Technosystems về suất thu hồi cổ phần
là kết quả trực tiếp của tình hình đòn bẩy nợ / vốn hết sức cao của nó.
Các báo cáo theo quy
mô chung cho Technosystems được nêu ra trong minh họa 6.4 và 6.5.
Việc phân tích các
báo cáo này thể hiện một số xu thế rất thú vị. Thứ nhất là từ bảng cân đối theo
quy mô chung (minh họa 6.4), ta thấy rằng tài sản cố định tính theo phần trăm
của tổng tài sản đã tăng lên rõ rệt từ năm 1980. Cùng với sự tăng của số lãi
còn giữ lại là tỷ lệ nợ dài hạn với cổ phần giảm mạnh (minh họa 6.3) xuống dần
tới mức trung bình của ngành khi Technosystems đã trưởng thành dần kể từ khi
công ty này được thành lập vào năm 1979. Nét đặc trưng nổi bật thứ hai là sự
giảm đều số nợ dài hạn tính theo phần trăm của tổng số vốn hoạt động trong thời
gian 3 năm. Cuối cùng là trong tài khoản vốn hoạt động, chúng ta thấy tổng tài
sản lưu động tính theo phần trăm của tổng tài sản giảm dần đều. Không có những
biểu hiện rõ ràng về mọi phần tài sản hoặc khoản nợ ngắn hạn khác ngoài số
dollar tương đối ít có liên quan tới phần chi tiêu ứng trước, chi phí cộng dồn,
thuế phải trả và thuế tạm hoãn. Do đó, không có một kết luận chung rõ ràng có
liên quan tới cách quản lý tài khoản vốn hoạt động của Technosystem.
Báo cáo thu nhập theo
quy mô chung (minh họa 6.5) cho thấy một hình mẫu đáng khích lệ. Tổng suất dư
lãi gộp đã tăng lên đều đặn trong thời kỳ 3 năm, từ 18,9% vào năm 1980 lên tới
25,4% vào năm hiện tại (1992). Tương tự, các suất dư lợi nhuận trước và sau
thuế đã cho thấy có sự cải thiện vững chắc, lợi nhuận trước thuế tăng từ 0,14%
lên 5,6% và sau thuế từ 0,1% lên 3,3%. Lĩnh vực duy nhất đang xem xét tiếp là
số % của tổng chi phí cho lượng bán tăng lên đều đặn, đặc biệt là mức tăng
trong số tiền lương văn phòng.
Thông thường, chúng
ta có thể mong muốn tổng số phần trăm chi phí giảm khi công ty phát triển và
đạt tới mức hiệu quả kinh tế theo quy mô nào đó, nhưng ở đây đã xảy ra tình
hình ngược lại. Tuy nhiên, trong khi còn thiếu những thông tin chi tiết hơn, ta
không thể có kết luận chung nào về nguyên nhân của sự gia tăng chi phí trong
trường hợp cụ thể này.
Minh họa 6.4
Technosystems, Inc
Các bảng cân đối theo quy mô chung
|
1982
|
1981
|
1980
|
Các tài sản
|
|
|
|
Tiền mặt
|
14.2%
|
9.8%
|
23.3%
|
Các khoản phải thu
|
40.2
|
61.9
|
48.9
|
Dự trữ
|
33.1
|
20.3
|
25.6
|
Chi tiêu trả trước
|
1.8
|
0.6
|
6.2
|
Tổng tài sản lưu
động
|
89.3%
|
92.6%
|
98.0%
|
Các tài sản cố định
(thuần túy)
|
10.7
|
7.4
|
2.0
|
Tổng
tài sản
|
100.0%
|
100.0%
|
100.0%
|
Các khoản nợ và cổ
phần
|
|
|
|
Các
khoản phải trả
|
33.2%
|
38.5%
|
42.9%
|
Các
phiếu nợ phải trả
|
8.7
|
14.0
|
4.5
|
Chi tiêu cộng dồn
|
0.3
|
1.3
|
1.4
|
Thuế phải trả
|
4.1
|
2.9
|
-
|
Thuế tạm hoãn
|
2.4
|
0.3
|
-
|
Tổng số nợ ngắn hạn
|
48.6%
|
57.1%
|
48.9%
|
Các phiếu nợ dài
hạn
|
29.3
|
36.7
|
50.3
|
Tổng
các khoản nợ
|
77.9
|
93.8
|
99.1
|
Cổ phần vốn
|
0.4
|
0.3
|
0.4
|
Lãi
còn giữ lại
|
21.7
|
5.9
|
0.5
|
Tổng cổ phần
|
22.1%
|
6.2%
|
0.9
|
Tổng
số nợ và cổ phần
|
100.0%
|
100.0%
|
100.0%
|
Minh họa 6.5
Technosystems, Inc
Các báo cáo thu nhập theo quy mô chung
|
1982
|
1981
|
1980
|
Doanh
thu
|
100.0 %
|
100.0 %
|
100.0 %
|
Giá vốn hàng bán
|
74.6 %
|
77.7 %
|
81.1 %
|
|
25.4 %
|
22.3 %
|
18.9 %
|
Thu nhập từ lãi
|
0.1
|
0.0
|
0.1
|
Tổng thu nhập
|
25.5 %
|
22.3 %
|
19.0 %
|
Tiền lương bán hàng
|
7.5
|
7.8
|
5.5
|
Tiền lương văn
phòng
|
5.0
|
4.0
|
3.6
|
Tiền thuê thiết bị
|
2.2
|
2.6
|
3.3
|
Chi phí chung và
quản trị *
|
5.1
|
4.9
|
6.5
|
Tổng
chi phí
|
19.8 %
|
19.3 %
|
18.9 %
|
Thu
nhập trước thuế
|
5.6
|
3.0
|
0.14
|
Thuế thu nhập
|
2.3
|
0.9
|
0.04
|
Thu nhập thuần túy
|
3.3 %
|
2.1 %
|
0.1 %
|
Có một số số liệu có thể không được cộng vào do đã làm tròn
Các kết luận
Nhìn chung, xu thế về
tình hình tài chính của Technosystem rõ ràng rất đáng khích lệ. Khả năng sinh
lợi là rất tốt và có lẽ đang ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, những xu thế đáng
khích lệ này lại đối trọng với tình trạng công ty thiếu vốn nghiêm trọng và
những nhu cầu cần bức thiết phải có thêm vốn cổ phần để đảm bảo cho sự tồn tại
lâu dài của nó. Ngoài ra, Technosystem cần phải chú ý nhiều hơn trong lĩnh vực
kiểm soát chi phí.
Theo quan điểm của
những người cho vay hoặc đầu tư cổ phần tiềm tàng, các kết quả phân tích chỉ ra
một cách rõ ràng là không nên tiếp tục cho Technosystems vay dù là ngắn hạn hay
dài hạn. Công ty đã vay nợ quá nhiều và bất kỳ một sự tăng thêm nào của phần
vốn vay nợ đều không được đảm bảo. Tuy nhiên, giả sử rằng công việc kinh doanh
tương lai của công ty Technosystems được đảm bảo một cách chắc chắn thì việc
đầu tư thêm một số vốn cổ phần có thể là thích hợp. Công ty đang phát triển rất
nhanh chóng và do đó còn có khả năng sinh lợi nhiều. Phần vốn cổ phần bổ sung
thêm sẽ có thể giảm nhẹ bớt gánh nặng đè lên cơ cấu của công ty. Mặc dù việc
đầu tư sẽ có đặc trưng rủi ro trên mức trung bình, nhưng những kết quả tiềm
năng ở giai đoạn phát triển này của công ty có lẽ cũng ở trên mức trung bình.
Công ty có thể thích hợp cho một công ty đầu tư vốn mạo hiểm (venture capital)
hoặc một cá nhân giàu có và sẵn sàng dám chịu mạo hiểm trong việc đầu tư vào
một công ty mới và đang phát triển nhanh.
Tóm tắt
Phân tích báo cáo tài
chính là một nghệ thuật phiên dịch các số liệu từ các báo cáo tài chính thành
những thông tin hữu ích cho việc ra quyết định có cơ sở thông tin. Hai công cụ
thường được dùng một cách rộng rãi trong phân tích báo cáo tài chính là: cách
phân tích tỷ lệ và các báo cáo theo quy mô chung. Những phạm vi được chú trọng
bao gồm khả năng sinh lợi, tính thanh khoản, hiệu quả hoạt động và cơ cấu vốn.
Trình tự logic trong phân tích gồm: một là cụ thể hóa các mục tiêu; hai là đưa
ra các tỷ lệ chủ yếu và các báo cáo theo quy mô chung; ba là phân tích và giải
thích các số liệu; và cuối cùng là đưa ra một hệ thống các kết luận và ý kiến
đề xuất dựa trên các số liệu này.